Đế chế Rome chuyển hướng sang Kitô giáo

Đế chế Rome đã dành được vị thế ưu việt của nó trong thế giới cổ đại không phải nhờ những thành tựu chính trị hay văn hoá, mà là bằng sức mạnh của các chiến binh. Trớ trêu thay, Pax Romana lại cũng bắt đầu suy yếu do chính khuynh hướng quân phiệt của nó.

Từ cuối thế kỉ II cho đến cuối thế kỉ III, đế chế Rome đã bắt đầu phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng không chỉ ở khía cạnh quân sự-chính trị mà còn ở các lãnh vực xã hội, kinh tế, văn hoá. Hụt hơi, lao đao, hoang mang trước những biến động xấu bất thường của thời đại, các nhà cai trị đế chế Rome lại còn tự đưa mình vào thế khó khi muốn xốc lại đế chế của mình bằng cách đàn áp những nhóm thiểu số trong đế chế.

Thế nhưng, chính những phản ứng đối phó khủng hoảng của đế chế cuối cũng đã dẫn đến sự chuyển hướng của cái quyền lực đã thống trị Địa Trung Hải suốt nửa thiên niên kỉ…

KITÔ GIÁO, MỘT TÔN GIÁO KÌ LẠ

Một khó khăn nghiêm trọng mà đế chế Rome phải đối mặt trong thời kì này là vấn đề tôn giáo trong đế chế. Thời cộng hoà, người Rome chỉ bắt buộc các tôn giáo của các dân tộc bị trị bày tỏ một sự tôn kính chính thức trong những ngày lễ lớn với các vị chủ thần truyền thống của người Rome. Còn trong giai đoạn đế chế, người Rome yêu sách thêm việc tôn kính các hoàng đế đã được Viện Nguyên Lão phong thần. Đây là điểm thống nhất các dị biệt trong đế chế.

Thế nhưng, với lập trường cương quyết chỉ tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi là CHA-CON-THÁNH THẦN, các Kitô hữu đã từ chối sự thoả hiệp với đa thần giáo của người Rome.

Không những vậy, lối sống theo Tin Mừng của các Kitô hữu đã như là một cái gai đâm vào lòng những thần dân của đế chế:

Họ theo tập quán của dân địa phương trong cách ăn mặc và lối sống, mà vẫn cho thấy một nếp sống lạ lùng mà ai cũng phải nhận là khó tin… Họ lập gia đình và sinh dưỡng con cái như mọi người nhưng không phá thai. Họ ăn chung một bàn với nhau nhưng không chồng chung vợ chạ…

Thêm vào đó, người ta lại nhầm lẫn các cử hành Phụng vụ của các Kitô hữu, như Bí tích Thánh Thể và cử chỉ Trao bình an cho nhau trong thánh lễ, là các hành vi vô luân.

Vì những lẽ đó, các Kitô hữu phải lãnh nhận sự bách hại từ chính quyền, nhưng không hoàn toàn chính thức mà chỉ bằng các chỉ dụ miệng từ các hoàng đế, và cung cách cấm đạo thì tuỳ theo phân định của các thống đốc tỉnh. Các cuộc bách hại bán chính thức đó có lẽ nhằm kềm chế sự phát triển mau chóng của Kitô giáo cũng như để bảo đảm cung cấp nạn nhân thường xuyên cho các đấu trường, nhưng không gây xung khắc quá căng thẳng trong xã hội Rome. Vào năm 250, hoàng đế Decius ban bố chiếu chỉ cấm đạo chính thức đầu tiên trong đế chế. Việc bách hại đạo ngày càng tàn bạo dần theo thời gian, và lên đến đỉnh điểm vào triều đại của hoàng đế Diocletianus.

CẢI CÁCH TỨ CHẾ CỦA HOÀNG ĐẾ DIOCLETIANUS

Năm 284, quân đội tại Tiểu Á đã tôn Diocletianus, một tướng lĩnh người gốc Illyria, lên làm hoàng đế. Giai đoạn thứ ba của các hệ thống phòng thủ đế chế Rome đã diễn ra dưới thời hoàng đế Diocletianus với chiến lược “phòng thủ theo chiều sâu”.

Hoàng đế Diocletianus nghĩ rằng các lãnh thổ mênh mông của đế chế sẽ được bảo vệ tốt hơn nếu như có hơn một hoàng đế, nên vào năm 285 ông đã đặt Maximianus làm augustus-đồng hoàng đế cho mình ở phía tây. Vào năm 293, ông đã tạo ra vị trí caesar-phó vương để phụ tá cho hai hoàng đế với quyền kế vị. Diocletianus đặt Galerius làm caesar cho mình và đặt Constantius Chlorus làm caesar cho Maximianus.

Bản đồ La Mã - Rome năm 293-305
Bản đồ La Mã – Rome năm 293-305

Tuy nhiên, do đóng quân với số lượng lớn trên tất cả các đường biên giới, đế chế lúc đó không còn lượng quân dự trữ dồi dào như trong hệ thống thứ hai để sẵn sàng tung ra trấn áp các lực lượng quân sự đối địch. Vì vậy, Diocletianus đã phải xếp đặt lại hệ thống phòng thủ bằng cách áp dụng hệ thống hai tầng hành chính-quân sự. Đầu tiên, về mặt hành chính, ông nhân rộng con số các tỉnh, từ 48 vào đầu thời kỳ trị vì của ông lên khoảng một trăm vào thời điểm ông thoái vị. Bên trên hệ thống hành chính đó, Diocletianus tạo ra một hệ thống quân sự mới, bằng cách nhóm gần một trăm tỉnh mới thành lập thành 12 quân khu lớn. Tổng quân số trên toàn đế chế lúc đó lên khoảng 600,000 quân, gấp đôi so với thời Augustus.

Quân đội tăng số đông đảo cộng thêm bốn triều đình mới thiết lập đã khiến gánh nặng thuế má trong đế chế dường như trở nên không thể chịu nổi. Sự an toàn của đế chế được tạm thời phục hồi, nhưng éo le thay, sự oán thán trong dân chúng lại tăng cao. Điều này có lẽ đã khiến những nhà cai trị đế chế lại nảy sinh những suy nghĩ giống như hoàng đế Nero và Domitianus về các Kitô hữu: những người Kitô hữu có lối sống khác biệt trong xã hội, thật tiện biết bao khi xốc lại đế chế của mình bằng cách biến các Kitô hữu thành cái đích cho mọi sự nghi ngờ và trấn áp…

KITÔ GIÁO, CON DÊ LÃNH TỘI

Có ý kiến cho rằng một khi đã tự xưng là Jovius, tức con của Jupiter, có thể hoàng đế Diocletianus cho rằng việc có những Kitô hữu nhất quyết không tôn kính ông như thần linh thì họ coi như cũng bất trung với đế chế. Dù sao đi nữa, vào năm 303, hoàng đế Diocletianus đã tung ra cuộc thanh trừng quy mô nhất, thảm khốc nhất trong lịch sử Rome dành cho người Kitô hữu.

Từ tháng hai năm 303 tới tháng hai năm 304, bốn Sắc lệnh cấm đạo ban ra tới tấp.

Sắc lệnh thứ nhất cấm chỉ việc thờ tự, phá huỷ các nơi thờ phượng, tịch thu sách thánh và chén thánh, cách chức và hạn chế quyền công dân của các tín hữu.

Sắc lệnh thứ hai truyền bắt tất cả các giáo sĩ, nó dẫn đến sắc lệnh thứ ba là tra tấn những người trung kiên và phóng thích những người chịu chối đạo.

Sắc lệnh thứ tư buộc toàn dân phải dâng hương tôn kính hoàng đế, ai không làm phải chịu tử hình hoặc khổ sai.

Sắc lệnh cuối cùng này nhằm truy bằng hết các tín hữu chưa bị tố cáo.

Mức độ tàn bạo và dài ngắn của cuộc bách hại này tuỳ theo từng miền trong đế chế. Nhiều Kitô hữu đã anh dũng dùng máu của mình minh chứng cho tình yêu với Thiên Chúa, tiêu biểu trong số họ là hai vị thánh nữ tử đạo người Rome, là Agnes và Caecilia.

Bách hại Kito hữu thời Rome

Thế nhưng đế chế thế kỉ IV đã khác thế kỉ I, vì khi chính quyền bắt đạo thì dân chúng lại có sự thông cảm cho các tín hữu. Khi cảm thấy bất lực trong chính sách cực đoan của mình, hoàng đế Diocletianus và các cộng sự đành chấp nhận thất bại trong việc đàn áp các Kitô hữu. Quá chán nản, ông đã chuyển sự chú ý của mình qua việc vận hành thử hệ thống kế ngôi mà ông đã dày công tính toán.

MỘT HỆ THỐNG KẾ VỊ ĐẦY BẤT ỔN

Vào ngày 1 tháng 5 năm 305, hoàng đế Diocletianus triệu tập hội đồng các tướng lĩnh của ông tại Nicomedia để tuyên bố rằng cần phải giao trách nhiệm với đế chế cho ai đó trẻ trung và mạnh mẽ hơn. Phần lớn các tướng lĩnh nghĩ là họ biết chuyện sẽ xảy ra tiếp theo quyết định thoái vị của Diocletianus: Constantinus và Maxentius, những người con trưởng thành của các hoàng đế mới và từ lâu đã được chuẩn bị cho việc kế vị cha mình, hẳn sẽ được tôn làm caesar. Thế nhưng theo sắp xếp của Diocletianus, thì sau khi đã ép Maximianus cùng thoái vị với mình, sẽ đặt Constantius Chlorus (Tây) và Galerius (Đông) tiếp quản hai chiếc ngai hoàng đế, còn các caesar mới sẽ là Flavius Severus (Tây) và Maximinus Daia (Đông).

Sau đó Diocletianus lui về biệt điện Spalatum ven biển Adriatic ở quê nhà Illyria trồng bắp cải. Hẳn nhiên tiếng nói của ông vẫn được tôn trọng trên toàn đế chế, và bước lùi của ông là để quan sát xem hệ thống kế ngôi trong Tứ Chế của mình sẽ hoạt động như thế nào. Tuy nhiên, việc những người con của các tân hoàng đế đã hoàn toàn bị ngó lơ trong hệ thống truyền ngôi chắc chắn không phải là một điềm lành cho Đệ nhị Tứ Chế. Vì đương nhiên, Maxentius và Constantinus sức mấy sẽ chịu ngồi im nhìn người ta ngồi lên ngai của phụ thân.

Tháng bảy năm 306, khi hoàng đế Constantius Chlorus đột tử tại Eboracum trên đảo Anh, quân đội của ông nhanh chóng tôn cậu quý tử Constantinus của ông lên ngôi hoàng đế. Chỉ ba tháng sau tại Italia, với sự hậu thuẫn của cựu hoàng Maximianus cha mình, Maxentius cũng tuyên bố mình mới là hoàng đế Rome. Vị caesar Flavius Severus, người đáng ra được lên ngôi hoàng đế chiếu theo hệ thống kế ngôi của Tứ Chế, dẫn quân tiến đánh Maxentius, nhưng bại trận và chết năm 307. Đế chế lại sôi lên sùng sục, buộc cựu hoàng Diocletianus phải rời bỏ biệt điện Spalatum để đi giàn xếp những cái đầu nóng của các hậu bối.

Vào ngày 11 tháng 11 năm 308, Diocletianus chủ toạ hội nghị Carnuntum để dàn xếp mọi chuyện. Ông răn đe cựu hoàng Maximianus, người đang toan tính trở lại nắm quyền sau khi thoái ngôi, nên tránh hẳn chuyện tranh đoạt quyền lực. Hai vị trí quyền lực bên Đông là hoàng đế Galerius và caesar Maximinus Daia vẫn được giữ nguyên. Còn bên Tây, ông công nhận tỉnh Cisalpina, Italia và Africa vẫn thuộc quyền quản lý của Maxentius , nhưng lại phong Licinius làm hoàng đế mới ở phía Tây thay cho Severus. Tuy nhiên Licinius chỉ nắm một lãnh thổ bao gồm các tỉnh Illyria, Pannonia cùng với Thrace, một tỉnh vốn thuộc nửa đế chế phía đông. Còn Constantinus chấp nhận bị giáng xuống làm caesar, nhưng lại nắm các lực lượng thiện chiến nhất đế chế khi vẫn cai quản đảo Anh, Iberia, xứ Gaul và tuyến biên giới sông Rhine.

Tại Carnuntum, dân chúng van nài Diocletianus trở lại ngai vàng, nhưng ông từ chối, để rồi ba năm sau ông được chết trên giường bệnh. Còn Đệ tam Tứ Chế do ông xếp đặt, cuối cùng cũng vắn số và kết thúc trong tơi bời khói lửa.

VỚI DẤU HIỆU NÀY NGƯƠI SẼ CHIẾN THẮNG

Năm 311, hoàng đế Galerius băng hà, Maximinus Daia từ caesar trở thành hoàng đế nhưng vẫn chỉ cai trị lãnh địa cũ của mình. Lãnh thổ của cựu hoàng quá cố Galerius được chia đôi: Maximinus Daia nhận những vùng đất thuộc châu Á còn Licinius lấy những vùng đất thuộc châu Âu trên bán đảo Balkans. Maximinus Daia sau đó đã ra lệnh tiếp tục bách hại các Kitô hữu. Một liên minh được thành lập giữa Maximinus Daia và Maxentius đã buộc Constantinus và Licinius phải thiết lập một thỏa thuận chính thức với nhau. Không chần chừ, Constantinus lập tức tiến đánh Maxentius tại Italia, và đến tháng mười năm 312 đã đánh bại và hạ sát đối thủ tại cầu Milvian, cửa ngõ vào thành Rome.

Trước trận đánh, tương truyền Constantinus mơ thấy biểu tượng χρ (Khi-Rô) của Kitô giáo đi kèm theo là dòng chữ “In Hoc Signo Vinces” (Với dấu hiệu này, ngươi sẽ chinh phục) và đã ra lệnh cho quân sĩ khắc nó lên khiên.

Biểu tượng χρ gồm hai chữ cái Hi Lạp là χρ (χ đọc là ‘khi’ và ρ đọc là ‘rô’), viết lồng vào nhau. Đây là hai chữ cái đầu tiên của từ χριστος, đọc là ‘Khristos’. Chữ χριστος (ta phiên âm trong tiếng việt là Ki-ri-xi-tô, lược âm đi thành Kitô) trong tiếng Hi Lạp được dịch từ chữ Messiah (מָשִׁיחַ) trong tiếng Do Thái, nghĩa là “Đấng Được Xức Dầu”. Đây chính là danh hiệu chính thức của Chúa Giêsu, mà trong Kinh Thánh luôn được đi kèm với tên gọi của Ngài: Giêsu Kitô (Jesus Christ; Latin: Iesus Christus; Hi Lạp: ιησους χριστος; Hebrew: מָשִׁיחַ יהושע).

Một vấn nạn lịch sử đặt ra là có nên tin rằng ngay từ trận chiến khốc liệt tại cầu Milvian, quân đội của Constantinus đã mang biểu tượng Kitô giáo trên các tấm khiên hay không? Câu chuyện này dường như được thêm thắt dần dần qua một truyền thuyết đã được nghe đi kể lại giữa một triều đình Kitô giáo các năm 318-320, nghĩa là khoảng sáu năm sau sự kiện. Quả thực, khó mà rút ra được từ những sử liệu này cái cốt lõi của sự thực, lý do là vì phần lõi đó đã được bao bọc trong nhiều lớp vỏ: nỗ lực muốn thu hút người ta vào Kitô giáo, lối lý tưởng hoá hoàng đế, cũng như sự phấn chấn hồ hởi trước một chiến thắng khó tin.

Với sự khôn ngoan, chúng ta không nên vội theo đuổi một đối tượng khó lòng kiểm chứng. Vì lẽ, đối với lịch sử, điều quan trọng không phải là những xác tín nội tâm của Constantinus nhưng là đường lối chính trị của ông, và đây mới là điều chúng ta có thể xác định thấu đáo được.

CONSTANTINUS VÀ CÚ XOAY TRỤC CỦA ĐẾ CHẾ ROME

Tháng hai năm 313, Constantinus hội kiến Licinius tại Milan, và liên minh giữa hai vị càng thêm sâu đậm khi Licinius cưới Constantia, em gái Constantinus. Chính ở đó, hai vị đã cùng nhau kí Chiếu chỉ Milan, cho phép các Kitô được tự do cử hành thánh lễ và trả lại tức khắc cho họ các nhà cửa và tài sản đã bị tịch thu. Kể từ đó, cuộc đua giữa hai vị là giành cho được nhân tâm của người Kitô hữu, vì họ đã chứng tỏ mình có một cơ cấu tổ chức hiệu quả và một sự kiên tâm đến liều mạng trong chiến đấu.

Hoàng Đế Constantine

Cuộc hội kiến bị cắt ngắn khi có tin tức hoàng đế Đông phương là Maximinus Daia đã vượt qua Bosporus và tiến vào lãnh thổ của Licinius. Tháng sáu năm 313, Licinius đánh tan đạo quân của Maximinus Daia dám xâm phạm Tây Phương rồi thừa cơ tiến lên đánh tràn qua Đông phương. Khi Maximinus Daia thua trận tự tử tại Tarsus, Licinius thành hoàng đế nửa đế chế phía đông. Ông yêu cầu các tổng đốc bên Đông trả lại cho các cộng đồng Kitô giáo các của cải và nơi thờ tự của họ, cùng“cho người Kitô hữu cũng như mọi người sống tự do và có khả năng lựa chọn tôn giáo họ muốn”.

Hoàng đế Constantinus còn ưu ái Kitô giáo hơn thế. Ông biết con đường thăng tiến quyền lực của ông không thể chỉ dựa vào việc sở hữu kinh thành Rome hay sự ủng hộ của Viện Nguyên Lão và quân đội, mà hơn hết, là phải nhờ đồng hành với tôn giáo mới đang lên này. Ngay từ năm 314, ông đã nhượng lại cung điện Lateranus cho Giáo Hoàng Sylvester I. Tiếp đó, các biểu tượng Kitô giáo xuất hiện trên đồng tiền Rome năm 315 là minh chứng cho quan điểm chính thức của chính quyền và là một công cụ tuyên truyền hoàn hảo. Các Kitô hữu cũng lần lượt được bổ nhiệm vào các vị trí quyền lực nhất: chức đô trưởng Rome năm 325, chức trưởng quan pháp đình năm 329. Cùng với các ưu ái dành cho Kitô giáo là các biện pháp kềm hãm các tập tục ngoại giáo: năm 318 có lệnh cấm các cuộc bói toán cúng tế tư gia, năm 323 ban hành sắc lệnh dỡ bỏ các hình ảnh ngoại giáo ở nơi công cộng.

Một điều quan trọng hơn hết, là tuy bản thân chỉ nhận phép Rửa Tội khi nằm trên giường hấp hối, nhưng Constantinus đã cho các con mình theo Kitô giáo ngay từ nhỏ. Và ông đã để lại cho con cháu không chỉ một nửa đế chế, mà nguyên vẹn đế chế Rome.

Năm 314, một cuộc xung đột nhỏ bùng lên giữa hai hoàng đế tại Cibalae, với kết quả là Licinius phải nhượng lại vùng bán đảo Balkans cho Constantinus. Họ đụng độ nhau một lần nữa ở trận Campus Ardiensis năm 317, và đi tới thỏa thuận rằng hai con trai của Constantinus là Crispus và Constantinus II, và con trai của Licinius là Licinianus, sẽ được phong caesar. Những chuyện này tuy chưa làm cho Licinius thay đổi thái độ ngay với người Kitô hữu, nhưng khi tình hình xung đột ngày một leo thang, thì Constantinus càng tỏ ra thân thiện với Giáo Hội bao nhiêu thì Licinius lại càng tỏ ra lạnh nhạt với họ bấy nhiêu.

Năm 320, Licinius gạt các Kitô hữu ra khỏi hệ thống quyền lực triều đình, và ban hành các biện pháp gây rắc rối cho giáo dân, nếu như không muốn nói là ông bắt đạo, vì ông nghi ngờ giáo dân có cảm tình với đối thủ chính trị của ông hơn. Những động thái đó của Licinius đã thách thức Constantinus ở phía tây, mà hệ quả là một loạt cuộc chiến nổ ra vào năm 323. Giành được chiến thắng chung cuộc, Constantinus trở thành hoàng đế duy nhất của toàn bộ đế chế Rome.

HOÀNG ĐẾ CONSTANTINUS VÀ KITÔ GIÁO

Qua biết bao máu lửa, hoàng đế Constantinus đã thống nhất lại đế chế Rome về một mối. Ông đã tìm hậu thuẫn ở tôn giáo mới, có lẽ do nhận thấy giáo thuyết độc thần của Ki tô giáo như một công cụ tuyệt vời để tập trung quyền bính vào một tay ông. Dần dà, trong chính Giáo Hội ấy, ông đã xác lập vai trò trọng yếu của mình.

Năm 324, hoàng đế Constantinus thiết lập một thủ phủ mới mang tên ông cho miền đông đế chế. Nó nằm tại vị trí thành cổ Byzantium của người Hi Lạp, trên bờ tây eo biển Bosphorus. Đây là một vị trí chiến lược nằm giữa châu Âu và châu Á, đồng thời cũng án ngữ hải trình từ Hắc Hải vào Địa Trung Hải. Ngay từ đầu, thành Constantinopolis đã là một thành phố Kitô giáo với những nhà thờ lớn được xây theo lệnh Constantinus. Vị trí hiểm yếu cùng với các bức tường thành đồ sộ bao bọc xung quanh khiến cho Constantinopolis trở thành điểm phòng thủ rồi sẽ đứng vững trước làn sóng chư dân trong thế kỉ tiếp theo.

Tuy chưa được Rửa Tội, nhưng không những tự coi mình như người nhà, mà từ từ ông còn tự coi mình là một giám mục đời. Ông tuyên bố với các vị lãnh đạo Giáo Hội: “Quý ngài là Giám mục của những người ở trong Giáo Hội, còn tôi đây, tôi được Thiên Chúa đặt làm giám mục của những người ở ngoài”. Như vậy, hoàng đế Constantinus tự cho mình có quyền và có nhiệm vụ sắp xếp các công vụ trong Giáo Hội. Vì thế, khi tiến vào Đông phương và được nghe về một cuộc tranh luận tín lý nghiêm trọng đã khởi đi từ thành Alexandria rồi lan rộng khắp miền Đông, ông tuyên bố tập họp tất cả các giám mục trong đế chế để bàn một lần cho sáng tỏ vấn đề.

Cuộc tranh luận tín lý từ Alexandria không phải là cuộc đầu tiên mà chỉ là mới nhất trong hàng loạt sự vụ tương tự đã diễn ra trong ba thế kỉ phát triển của Kitô giáo, dù rằng nó đúng là cuộc tranh luận lớn nhất cho đến lúc đó. Tuy nhiên, những tranh luận về đức tin trong ba thế kỉ đầu đã không lan rộng khắp Giáo Hội, và thường được giải quyết theo kiểu anh em trong nhà bảo nhau. Thế nhưng, khi mà Kitô giáo đã chuyển mình thành một thành phần có thế giá trong đế chế, hoàng đế Constantinus muốn công chuyện lần này phải được dàn xếp bằng một cách thức mới: triệu tập Công đồng hoàn vũ đầu tiên ở Nicea năm 325…

Nguồn: Lạc Vũ Thái Bình
Huế, 9-2022

Thư mục tài liệu tham khảo
-CHAMBERS Mortimer, Lịch sử văn minh Phương Tây, nxb Văn hoá thông tin, 2004.
-DANIELOU Jean, Tân lịch sử Giáo Hội tập 1, không đề nxb, 2002.
-DK và Viện Smithsonian, Lịch sử thế giới, nxb Dân trí, 2017.
-KAPLAN Robert, Sự minh định của địa lý, nxb Hội nhà văn, 2017.
-RODGERS Nigel, Rome đế quốc hùng mạnh nhất, nxb Phụ nữ, 2008.
-THOẠI Nguyễn Thế, Giáo hội đi trong nhân loại, không đề nxb, 1991.
-THOẠI Nguyễn Thế, Giáo phụ học, không đề nxb, 2008.
-TURCHIN Peter, Sự thăng trầm của các đế chế, nxb Từ điển bách khoa, 2012